Thơ nói lên phận đau con người, thơ xông hương trước nhan Thiên Chúa. Thơ ấy, nhà thơ ấy là Hàn Mạc Tử. Bài tiểu luận này xin được luận về chất triết trong thơ của thi sĩ họ Hàn. Thứ triết không xa xôi, dính chặt vào thân phận con người và thể hiện một phong cách
Nam diễn viên trẻ người Trung Quốc Dư Thừa Ân (21/9/1998) sinh ra tại Hồ Bắc - Vũ Hán, tốt nghiệp khoa biểu diễn Học viện Hý kịch Trung Ương. Năm 2019, anh tham gia chương trình CHUANG, sau đó có cơ hội diễn xuất đầu tiên trong phim Thân Ái Nhiệt Ái vai Demo.
Hàn Mặc Tử (22/9/1912 – 11/11/1940) là nhà thơ nổi bậc của Việt Nam, là người khởi xướng nên trường thơ loạn, đi tiên phong trong dòng thơ lãng mạn hiện đại. Nói về Hàn Mặc Tử, nhà thơ Chế Lan Viên ca ngợi: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi
Phân tích tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên xuất sắc; Top 5 gel dưỡng ẩm không nhờn rít lựa chọn số 1 cho mùa hè; An Bang Garden Homestay – Homestay Hội An đốn tim du khách với nhiều view chất lừ; Phân tích khổ 2 bài mùa xuân nho nhỏ cực hay; Phân tích khổ 2 bài mùa xuân nho
Hà Lan 5,3 Công nghệ khoa học đời sống Đức: 27,4 Điện tử quang học Ireland: 17,8 Nhật: 19,3 Anh: 10,2 Trung Quốc: 17,1 Điện tử Đài Loan: 11,2 Nhật: 16,5 Hàn Quốc: 15,7 Malaysia: 12,4 Công nghệ sinh học Bỉ: 26,8 Pháp: 14,6 Thụy Sỹ 12,6 Viễn thông Phần mềm máy tính Nhật: 20,3 Canada: 15,9
xaTB. Chế Lan Viên là một trong số không nhiều nhà thơ nổi tiếng nhất của phong trào Thơ mới 1930 – 1945 và sau 1945 ông vẫn được xem là một nhà thơ có vai trò mở đường và dẫn đường cho thơ ca cách mạng. Kỉ niệm 10 năm ngày mất của nhà thơ 1999, giới nghiên cứu văn học đã tổ chức hội thảo khoa học về Chế Lan Viên. Qua đó, một lần nữa Chế Lan Viên lại được khẳng định tài năng và sự nghiệp, được tôn vinh như một nhà thơ có tầm vóc lớn lao. Cùng chúng tôi điểm qua những tuyển tập thơ Chế Lan Viên bạn nhé! 1, Tiếng Hát Con Tàu Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hoá những con tàu Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng? Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi? Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường Con đã đi nhưng con cần vượt nữa Cho con về gặp lại mẹ yêu thương Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa Con nhớ anh con, người anh du kích Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con Con nhớ em con, thằng em liên lạc Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau, mế thức một mùa dài Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương? Khi ta ở, chi là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn! Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi? Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ Tây Bắc ơi, ngươi là mẹ của hồn thơ Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa Nay trở về, ta lấy lại vàng ta Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng? Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân 2, Người Đi Tìm Hình Của Nước Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp Giấc mơ con đè nát cuộc đời con Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dày Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi Lòng ta thành con rối Cho cuộc đời giật dây Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ Tìm đường đi cho dân tộc theo đi Hiểu sao hết “Người đi tìm hình của Nước” Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người Một góc quê hương nửa đời quen thuộc Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai Thế đi đứng của toàn dân tộc Một cách vin hoa cho hai mươi lăm triệu con người Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya? Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi Những đất tự do, những trời nô lệ Những con đường cách mạng đang tìm đi Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây? Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử? Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây? Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao? Nụ cười sẽ ra sao? Ơi, độc lập! Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc Khi tự do về chói ở trên đầu Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc Sao vàng bay theo liềm búa công nông Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc “Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!” Hình của Đảng lồng trong hình của Nước Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười Bác thấy dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt Ruộng theo trâu về lại với người cày Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc Không còn người bỏ xác bên đường ray Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát Điện theo trăng vào phòng ngủ công nhân Những kẻ quê mùa đã thành trí thức Tăm tối cần lao nay hoá những anh hùng Nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê Thành nước Việt nhân dân trong mát suối Mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói Những đời thường cũng có bóng hoa che Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc… Tuyết Mat-xcơ-va sáng ấy lạnh trăm lần Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi Kìa, bóng Bác đang hôn lên hòn đất Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai 3, Con Cò I Con còn bế trên tay Con chưa biết con cò Nhưng trong lời mẹ hát Có cánh cò đang bay “Con cò bay la Con cò bay lả Con cò Cổng Phủ Con cò Đồng Đăng…” Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ “Con cò ăn đêm Con cò xa tổ Cò gặp cành mềm Cò sợ xáo măng…” Ngủ yên, ngủ yên, cò ơi, chớ sợ Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân Con chưa biết con cò con vạc Con chưa biết những cành mềm mẹ hát Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân Ngủ yên, ngủ yên, ngủ yên Cho cò trắng đến làm quen Cò đứng ở quanh nôi Rồi cò vào trong tổ Con ngủ yên thì cò cũng ngủ Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi Mai khôn lớn, con theo cò đi học Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân Lớn lên, lớn lên, lớn lên… Con làm gì? Con làm thi sĩ Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ Trước hiên nhà Và trong hơi mát câu văn III Dù ở gần con Dù ở xa con Lên rừng xuống bể Cò sẽ tìm con Cò mãi yêu con Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con À ơi! Một con cò thôi Con cò mẹ hát Cũng là cuộc đời Vỗ cánh qua nôi Ngủ đi, ngủ đi! Cho cánh cò, cánh vạc Cho cả sắc trời Đến hát Quanh nôi 4, Những Sợi Tơ Lòng Tôi không muốn đất trời xoay chuyển nữa Với tháng ngày biền biệt đuổi nhau trôi Xuân đừng về! Hè đừng gieo ánh lửa! Thu thôi sang! ông thôi lại não lòng tôi! Quả đất chuyển giây lòng tôi rung động Nỗi sầu tư nhuần thấm cõi Hư Vô! Tháng ngày qua, gạch Chàm đua nhau rụng Tháp Chàm đua nhau đổ dưới trăng mờ! Lửa hè đến! Nỗi căm hờn vang dậy! Gió thu sang thấu lạnh cả hồn thơ! Chiều đông tàn, như mai xuân lộng lẫy Chỉ nói thêm sầu khổ với ưu tư! Tạo hoá hỡi! Hãy trả tôi về Chiêm quốc! Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian! Muôn cảnh đời chỉ làm tôi chướng mắt! Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ điêu tàn! Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh Một vì sao trơ trọi cuối trời xa! ể nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo! 5, Xuân Tôi có chờ đâu, có đợi đâu em chi xuân lại gợi thêm sầu? – Với tôi, tất cả như vô nghĩa Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau! Ai đâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho tôi những lá vàng? Với của hoa tươi, muôn cánh rã Về đây, đem chắn nẻo xuân sang! Ai biết hồn tôi say mộng ảo Ý thu góp lại cản tình xuân? Có một người nghèo không biết Tết Mang lì chiếc áo độ thu tàn! Có đứa trẻ thơ không biết khóc Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran! Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ! Một cánh chim thu lạc cuối ngàn 6, …Cái Vui Bây Giờ Nắng đem chia mùa mới xuống trăm nhà Đã tắt tiếng than cuộc đời gió thổi Mẹ ru con bằng bài ca bộ đội Đời quá vui nên áo vải cũng cài hoa 7, Cái Sọ Người Này chiếc sọ người kia, mi hỡi! Dưới làn xương mỏng mảnh của đầu mi Mi nhớ gì, tưởng gì trong đêm tối? Mi trông mong ao ước những điều chi? Mi nhớ đến cảnh pháp trường ghê rợn Sọ muôn người lần lượt đuổi nhau rơi? Hay mi nhớ những đêm mờ rùng rợn Hồn mi bay trong đốm lửa ma trơi? Có tìm chăng, những chiều không tiếng gió Của người mi thi thể rữa tan rồi? Có tưởng lại mảnh hồn mi đau khổ Đang lạc loài trong Cõi Chết xa xôi? Hỡi chiếc sọ, ta vô cùng rồ dại Muốn riết mi trong sức mạnh tay ta! Để những giọt máu đào còn đọng lại Theo hồn ta, tuôn chảy những lời thơ Ta muốn cắn mi ra từng mảnh nhỏ! Muốn điên cuồng nuốt cả khối xương khô! Để nếm lại cả một thời xưa cũ Cả một dòng năm tháng đã trôi xa! 8, Tình Ca Ban Mai Em đi, như chiều đi Gọi chim vườn bay hết Em về, tựa mai về Rừng non xanh lộc biếc Em ở, trời trưa ở Nắng sáng màu xanh che Tình em như sao khuya Rải hạt vàng chi chít Sợ gì chim bay đi Mang bóng chiều bay hết Tình ta như lộc biếc Gọi ban mai lại về Dù nắng trưa không ở Ta vẫn còn sao khuya Hạnh phúc trên đầu ta Mọc sao vàng chi chít Mai, hoa em lại về… 9, Vòng Cườm Trên Cổ Chim Cu Con cu cườm vẫn đeo vòng cườm muôn thuở Triệu tấn bom không thể nào làm xổ Một hạt cườm trên cổ chim tơ Mùa xuân thật bất ngờ Tiếng chim sau pháo cụm pháo bầy cấp tập Rừng cháy đen vẫn cành ra lộc Chỗ cành xanh là chỗ chim gù. Hồn đất nước bâng khuâng theo tiếng chim dân dã Như chửa nghe bao giờ. Mà như đã Nghe rồi. Tự đâu thời xa xửa xa xưa Tự sông Thương đôi dòng, Vọng phu hoá đá Tiếng chim như tự buổi bình Ngô, tự thuở Hai Bà Tiếng chim như tình ái, như thơ Ở xứ nghìn năm chiến tranh, vạn ngày trận mạc Để yên lòng người thì con chim hát Cho kẻ ra đi, cho kẻ đợi chờ Bom đạn ngất trời thì đã sao đâu? Trăm hạt cườm trên cổ chim không thiếu hạt cườm nào. Chim cu gáy sự vật tuần hoàn theo quy luật, Chim cu gáy thì xanh rờn cỏ mọc Đỏ trái chín cành cao cành thấp Thì anh lại yêu em như buổi ban đầu. Ngày thắng trận trở về vẫn chim cu ấy gáy Vòng cườm qua nghìn cơn lửa cháy Tiếng gáy tưởng chừng như đã, như chưa Như của năm nào, như của bây giờ. 10, Đêm Tàn Ta cùng Nàng nhìn nhau không tiếng nói Sợ lời than lay đổ cả đêm sâu Đôi hơi thở tìm nhau trong bóng tối Đôi linh hồn chìm đắm bể U Sầu “- Chiêm nương ơi, cười lên đi, em hỡi! Cho lòng anh quên một phút buồn lo! Nhìn chi em chân trời xa vòi vọi Nhớ chi em sầu hận nước Chàm ta? Này, em trông một vì sao đang rụng Hãy nghiêng mình mà tránh đi, nghe em! Chắc có lẽ linh hồn ta lay động Khi vội vàng trở lại nước non Chiêm” Lời chưa dứt, bóng đêm đà vụt biến! Tình chưa nồng, đã sắp phải phôi pha! Trên trần gian vầng ô kia đã đến Gỡ hồn Nàng ra khỏi mảnh hồn ta! 11, Đêm Xuân Sầu Trời xuân vắng. Cỏ cây rên xào xạc Bóng đêm luôn hoảng hốt mãi không thôi Gió xuân lạnh, ngàn sâu thôi ca hát Trăng xuân sầu, sao héo, cũng thôi cười Trên đồi lạnh, tháp Chàm sao ủ rũ Hay hận xưa muôn thuở vẫn chưa nguôi? Hay lãnh đạm, Hời không về tháp cũ Hay xuân sang. Chiêm nữ chẳng vui cười? Bên tháp vắng, còn người thi si hỡi Sao không lên tiếng hát đi, người ơi? Mà buồn bã, âu sầu trong đêm tối Người vẫn nằm há miệng đớp sao rơi? 12, Điệu Nhạc Điên Cuồng Hầu ran nóng, lửa hồng bừng cháy mắt Máu hồng tươi lay vỡ cả thành tim âu điệu nhạc điên cuồng ta khao khát Chẳng vang lên tràn ngập suối träng êm? em mau đây, chiếc sọ dừa ứ huyết Chiếc xương khô rợn trắng khí tinh anh! Và rót mau trong hồn ta tê liệt Những nguồn mơ rồ dại, hỡi yêu tinh! Ta sẽ nhịp khớp xương lên đỉnh sọ Ta sẽ ca những giọng của Hồn iên ể máu cạn, hồn tàn, tim tan vỡ ể trôi đi ngày tháng nặng ưu phiền! ể hưởng lấy một giờ không tục lụy ể uống vào một phút chết say sưa! – Nhạc trần gian khôn vui hồn quạnh quẽ Rượu trần gian gây nhớ vết thương xưa 13, Mồ Không Và xương khô, và sọ dừa, và thịt nát Và hơi âm rờn rợn của yêu tinh Loài người đã mang đi qua mộ khác Để lòng ta trống trải khí thiêng linh Thôi vắng bặt từ nay bao giây phút Mà tiếng cười ghê rợn dậy vang mồ! Mà hơi khóc rung dài giây gió lướt Mà thời gian náo động cõi Hư Vô! Hồn ma ơi! Hồn ma ơi! có nhớ Nơi mi hằng chôn gửi hận Trần Gian? Nơi đã khô của mi bao máu đỏ Bao tủy nồng, nào trắng với xương tàn? Mi có biết rồi đây trong những buổi Mà sao sa rung chuyển đáy mồ không Mà nắng chếch huyệt sâu um cỏ dại Ta buồn thương, nhớ tiếc, với trông mong? Hồn ma ơi! Trong những đêm u tối Mi tung mây về chân trời vòi vọi Hãy mau nghiêng cánh lại ở bên mồ Phủ lòng ta say đắm chút hương mơ! Lời của mồ không Ở đâu rồi, người nhớ mong yêu tưởng Mà phách hồn vừa ôm ấp trong tay? Quá xa xôi phút giây chan chứa mộng! Vỡ tan rồi! cốc rượu ứa hơi say! Nàng hỡi Nàng! trên tay ta là mộ trống Trong lòng ta là huyệt bỏ, với trong hồn Là mồ không lạnh lùng sương giá đọng Toàn khổ đau, sầu não với lo buồn! Hãy cho ta lúc vui trên tay khác Một chút Thương an ủi tấm lòng đau Như hồn ma, trong khi về mộ khác Còn đôi hồi dừng cánh viếng mồ sâu 14, Hoa Đào Nở Sớm Rặng đào trước ngõ em qua Sáng nay bỗng ướm cành hoa vào mùa Đầy vườn lộc biếc cây tơ Năm đi chưa hết, đã ngờ xuân đâu Bỗng dưng một đóa hoa đầu Nghe như đất lạ năm nào gặp em Phải rằng xê xích thời gian Vầng dương bên ấy mọc sang bên này? Nắng hoe. Bướm trở mình bay Cánh non nở vội kịp ngày chào hoa Lòng anh từ độ em qua Hoa bay bướm dạo, cùng ta vào đời 15, Ngủ Trong Sao Ta để xiêm lên mây, rồi nhẹ bước Xuống dòng Ngân loà chói ánh hào quang Sao tán loạn đua bơi trên mặt nước Tiếng lao xao dội thấu đến cung Hằng Rồi trần truồng, ta nằm trên điện ngọc Hai tay cuồng vơ níu áo muôn tiên Đầu gối lên hàng Thất tinh vừa mọc Hồn giạt trôi về đến nước non Chiêm Ta gặp Nàng trên một vì sao nhỏ Ta hôn Nàng trong bóng núi mây cao Ta ôm Nàng trong những nguồn trăng đổ Ta ghì Nàng trong những suối trăng xao Nàng không nói, không cười, không than thở Theo ta về sao Đẩu ở chân trời Trên má ta lệ Nàng đâu bỗng nhỏ Ôm má ta, Nàng sẽ bảo đôi lời Nhưng mà trăng! nhưng mà sao! nhưng mà gió! Ồn ào lên, tán loạn chạy quanh ta Phút hỗn độn qua rồi. Trời! Đau khổ! Bóng Chiêm nương dần khuất dưới sương sa Đêm hôm nay ngồi đây trên bờ bể Ta lặng đếm thử bao nhiêu thế kỷ Đã trôi trong một phút vội vàng qua Ta lắng nghe những thế giới bao la Tụ họp lại trong lòng muôn hột cát Dòng tư tưởng lần trôi trong Lầm Lạc Hồn say sưa vào khắp cõi Trời Mơ Ai kêu ta trong cùng thẳm Hư Vô? Ai réo gọi trong muôn sao, chới với? – Nàng, nàng, nàng, thôi chính nàng đương mong đợi 16, Gửi Kiều cho em năm đánh Mĩ Hai trăm năm ngày kỉ niệm Nguyễn Du Pháo sáng đốt tên nhà của Nguyễn Em có yên tâm để đọc Truyện Kiều Buổi trăng lửa chếch soi tiền tuyến? Gió mùa thu xào xạc hoa lau Anh qua nhà của Nguyễn chả dừng lâu Nhớ đến Nguyễn ngước nhìn Hồng Lĩnh vậy Bến phà Vinh bom “cắt” hai đầu… Có ngờ đâu cồn cát trắng cây xanh Gặp Nguyễn nơi đây trên đất Quảng Bình Đất hỏa tuyến những chàng trai lớp bảy Lại ngâm Kiều sau một cuộc giao tranh. Bốn phía ruộng đồng mái rạ bờ tre Trận địa nằm man mác giữa hương quê… Thơ dân tộc lẫn màu nâu dân dã Nên câu Kiều đồng vọng, họ còn nghe. Đêm thắng giặc Bảo Ninh, mẹ Suốt ngâm Kiều Mẹ dám đâu quên cái thuở khổ nghèo Nhà ai đó lẩy Kiều, câu được, mất Mẹ nấp gốc dừa, nước mắt tràn theo “Thuyền ai thấp thoáng”… Đất trời quê ta Nhật Lệ sông dài, đò mẹ lại qua Câu thơ Nguyễn cũng góp phần chống Mĩ Một mái chèo trong lửa đạn xông pha. Hai trăm năm… ờ nhỉ… hai trăm năm Thuở vui buồn… Kiều sống giữa lòng dân Xưa tiếng võng ru hời đêm lạnh giá Nay cỏ mềm xanh nõn tận trời xuân. Đất nước mình còn nghèo lắm, hỡi em yêu Cho đến giọt lệ cha ông cũng còn có ích với ta nhiều… Dẫu súng đạn ngặng đường ra hỏa tuyến Đi đường dài, em giữ Truyện Kiều theo. 17, Cành đào Nguyễn Huệ Hẳn nhớ Thăng Long,hẳn nhớ đào? Mai vàng xứ Huế có khuây đâu? Đào phi theo ngựa về cung nhé! Nở cạnh đài gương sắc chiến bào. 18, Nhớ Em Nơi Huyện Nhỏ em đi về Kiến Xương mùa này mưa bão lắm phòng anh mờ hơi sương nhớ em nhu nhớ nắng chiều nay ốm một mình vắng em ngồi bên cạnh ngọn gío đùa trêu anh cửa khép rồi vẫn đánh đường xa trăm cây số ngỡ có em về đó đắp chăn dày cho anh và đứng nhìn anh ngủ rồi lại đi Thái Bình về Kiến Xương huyện nhỏ để lại trời bên cửa một màu xanh xanh xanh Hoa Ngày Thường-Chim Bào Bão Tiểu sử nhà thơ Chế Lan Viên Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 tức ngày 9 tháng 9 năm Canh Thân tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung THCS hay cấp II hiện nay thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của “Trường Thơ Loạn”. Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là “Bàn thành tứ hữu” của Bình Định. Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội. Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông cho ra đời tập văn Vàng sao, tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực. Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 Quảng Trị, Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học sau là báo Văn nghệ. Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa – giáo dục của quốc hội. Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, thọ 68 tuổi. Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật 1996. Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng. Phong cách của Chế Lan Viên Con đường thơ của Chế Lan Viên “trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ”, thậm chí có một thời gian dài im lặng 1945-1958. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa “trường thơ loạn” “kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm”. Những tháp Chàm “điêu tàn” là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ. Sau Cách mạng tháng Tám, thơ ông đã “đến với cuộc sống nhân dân và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng”, và có những thay đổi rõ rệt. Trong thời kì 1960-1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự. Sau năm 1975, “thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống”. Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng – triết lý. “chất suy tưởng triết lý mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa” Khai thác triệt để các tương quan đối lập. Và nổi bật nhất là năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo nhiều ý nghĩa biểu tượng. Các bút danh của Chế Lan Viên Ngoài bút danh Chế Lan Viên được hiểu là tác giả tự nhận mình là bông hoa lan trong khu vườn nhà họ Chế- dòng họ vua chúa của dân tộc Chăm ở nước Chiêm Thành xưa nổi tiếng, trong bài giới thiệu tập tiểu luận Những bước đường tư tưởng của tôi của Xuân Diệu, đăng trên báo Văn học tháng 9 năm 1958, ông ký bút danh Thạch Hãn tên một con sông tỉnh Quảng Trị quê ông. Nhiều bài báo in trên báo Thống Nhất, xuất bản ở Hà Nội trước tháng 5 năm 1975, ông cũng ký bằng bút danh này. Từ năm 1959 đến năm 1963, trong thời gian làm biên tập báo Văn học, phụ trách chuyên mục Nói chuyện văn thơ, trả lời bạn đọc, ông ký bút danh Chàng Văn. Năm 1961, Nhà xuất bản Văn học đã cho xuất bản hai tập Vào nghề và Nói chuyện văn thơ của tác giả Chàng Văn. Trong mục Nụ cười xuân trên báo Văn học, Chế Lan Viên có hai bài viết ngắn là Ngô bói Kiều và Lý luận Đờ Gôn ký tên Oah tức Hoan. Tác phẩm chính của Chế Lan Viên Thơ Điêu tàn 1937, 37 bài thơ Gửi các anh 1954, 13 bài thơ Ánh sáng và phù sa 1960, 70 bài thơ Hoa ngày thường – Chim báo bão 1967, 49 bài thơ Những bài thơ đánh giặc 1972 Đối thoại mới 1973, 64 bài thơ Ngày vĩ đại 1976 Hoa trước lăng Người 1976, 12 bài thơ Dải đất vùng trời 1976 Hái theo mùa 1977, 75 bài thơ Hoa trên đá I,II 1984 – 1988, 15 và 16 bài thơ Tuyển tập thơ Chế Lan Viên tập I, 1985 tập II, 1990 Ta gửi cho mình 1986 Di cảo thơ I, II, III 1992, 1993, 1995 Tuyển tập thơ chọn lọc Văn Vàng sao 1942 Thăm Trung Quốc bút ký, 1963 Những ngày nổi giận bút ký, 1966 Bác về quê ta tạp văn, 1972 Giờ của đô thành bút ký, 1977 Nàng tiên trên mặt đất 1985 Tiểu luận phê bình Kinh nghiệm tổ chức sáng tác 1952 Nói chuyện thơ văn 1960 Vào nghề 1962 Phê bình văn học 1962 Suy nghĩ và bình luận 1971 Bay theo đường bay dân tộc đang bay 1976 Nghĩ cạnh dòng thơ 1981 Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân 1981 Ngoại vi thơ 1987 Nàng và tôi 1992 Thành Tựu của nhà thơ Chế Lan Viên “Chế Lan Viên là nhà thơ luôn có sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Ông luôn biết kế thừa, phát huy những tinh hoa của nền văn chương và nhân loại để mang lại cho tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng. Ông có sự nhận thức sâu sắc về chức năng của văn chương và sứ mệnh thiêng liêng của người nghệ sĩ đối với cuộc sống.[cần dẫn nguồn] “Thành tựu nghệ thuật Chế Lan Viên đã đạt được trong quá trình sáng tạo chính là những đóng góp lớn lao đối với sự phát triển của thơ ca Việt Nam nói riêng và văn chương Việt Nam nói chung.” Trên đây là những thông tin liên quan đến nhà thơ Chế Lan Viên do đã tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hy vọng rằng với những chia sẻ trên đây sẽ giúp bạn có thêm nhiều thông tin hơn về nhà thơ Chế Lan Viên bạn nhé! Xem thêm Ống Hút Cỏ Bàng – Nguồn gốc, cách dùng và cách bảo quản ống hút cỏ bàng TOP 10 Trường mần non tốt nhất Lào Cai bạn không nên bỏ lỡ Trung Tâm Ngoại Ngữ ILA Vietnam Top 10 Trường Đại Học Có Học Phí Cao Nhất Việt Nam Những Bài Thơ Hay về Sự Cô Đơn – Một Mình Lạc Lõng giữa cuộc đời
Bên cạnh những vần thơ điên, thơ say, thơ siêu thực, thơ Hàn Mặc Tử là một giọng thơ trữ tình, đằm thắm, thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. Hàn Mặc Tử. Sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận định ''Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình." Thật vậy, trong làng Thơ mới, Hàn Mặc Tử là thi sỹ có diện mạo thơ vô cùng phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn. Bên cạnh những vần thơ điên, thơ say, thơ siêu thực là một giọng thơ trữ tình, đằm thắm, thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. "Ánh sáng" khác thường Hàn Mặc Tử Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22/9/1912 tại ngôi làng Lệ Mỹ bên dòng Nhật Lệ, nay thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Hàn Mặc Tử bộc lộ một tài năng thơ ca từ rất sớm. Năm 16 tuổi, ông đã bắt đầu làm thơ và nổi tiếng trên thi đàn với bài thơ đầu tiên ''Vội vàng chi lắm'' họa vận bài ''Gởi nhạn''của nhà thơ Mộng Châu. Thơ Hàn Mặc Tử thuở ban đầu mang đậm dấu cổ thi, chất trữ tình trong thơ ông là chất trữ tình cổ điển, với lối so sánh ước lệ và thể thơ Đường luật. Tuy nhiên, dẫu bắt đầu bằng những khuôn mẫu nhưng thơ của Tử đã mầm mống xuất hiện những phá cách đầy táo bạo ''Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối, Gió thu lọt cửa cọ mài chăn''… Thức khuya Từ năm 1935, ông đổi bút hiệu thành Lệ Thanh, rồi Hàn Mặc Tử. "Hàn Mặc Tử" là "chàng bức rèm lạnh" hay "chàng đơn lạnh." Cái tên ấy dường như đã ứng với dự cảm về những năm cuối trên đỉnh thơ cô đơn, lẻ lạnh của riêng ông. Năm 1936, Hàn Mặc Tử cho xuất bản tập "Gái quê" lừng danh và cũng chính lúc này ông phát hiện mình bị bệnh phong. Gần cả cuộc đời phải chống chọi với bạo bệnh, cũng là gần trọn cuộc đời, thi sỹ luôn đấu tranh cho khát vọng được sống, được yêu đến quằn quại, đau đớn. Tuy nhiên cũng nhờ những đau khổ trong cuộc đời, cộng với bản năng sáng tạo đã chắp cánh cho thi ca Hàn Mặc Tử, đưa ông lên đỉnh cao của văn chương, nghệ thuật hiện đại. Từ những năm ba mươi của thế kỷ, trong tư duy nghệ thuật của mình, Hàn Mặc Tử đã có ý thức đi tìm cái lạ và nung nấu thi hứng sáng tạo ở một cường độ cao ''Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ - sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui buồn hờn giận đến gần đứt sự sống.'' Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử vô cùng phong phú và đa dạng như ông đã từng nói "Vườn thơ của tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa càng ớn lạnh.'' Trữ tình gợi cảm trong đau thương Trong cuốn "Hàn Mặc Tử một hiện tượng thơ độc đáo trong tư duy thơ Việt Nam," nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy cho rằng ''Nếu Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính là dòng lãng mạn thuần khiết, nếu Xuân Diệu và nhất là Huy Cận, là dòng lãng mạn được cườm vào những yếu tố tượng trưng… thì Hàn Mặc Tử là hài hòa của lãng mạn, tưởng tượng, thậm chí siêu thực nữa.'' Có lẽ chính từ cuộc sống mỏi mòn trong bệnh tật, cô đơn, trong bóng đêm hoang hoải đầy ác mộng, ẩn ức, ám ảnh giữa thực và mộng của ông đã thăng hoa từ vô thức mà bừng lên những hình ảnh siêu thực trên cái nền lãng mạn ''Không gian dày đặc toàn trăng cả/ Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng,'' ''Nước hóa thành trăng trăng ra nước/ Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm''… Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, có khi người ta cảm thấy bứt rứt kinh khủng bởi lối nói đậm vẻ phương Đông vừa lộ liễu vừa kín đáo. Thơ ông không áp đặt người đọc phải cảm nhận những gì ông cảm nhận, những con chữ chỉ đóng vai trò đòn bẩy, là phương tiện mở ra những liên tưởng độc đáo, làm bật lên cảm xúc riêng biệt trong mỗi người, từ đó mà ta đón nhận những mỹ cảm một cách tròn đầy hơn, đã đời hơn mà reo lên thích thú ''Trăng nằm sõng soài trên cành liễu Đợi gió đông về để lả lơi Hoa lá ngây tình không muốn động Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi'' Bẽn lẽn Đôi bàn tay của một con người mắc bệnh phong đang co quắp vì đau đớn, nhưng càng đau đớn, đôi bàn tay ấy càng khát khao, thèm muốn níu giữ lấy cuộc đời níu giữ lấy tình đời. Dường như nhà thơ cố dồn hết sức lực của mình vào đôi bàn tay để "riết," để "níu," để "ràng rịt" với cuộc đời. Và cũng có những lúc đôi bàn tay ấy xòe ra thật rộng, nhà thơ như cởi hết lòng để yêu, để viết và để hòa mình với thiên nhiên với cuộc đời thơ mộng ''Cởi thơ, cởi mộng, cởi niềm yêu thương''... Ngủ với trăng Nhà thơ đã mở rộng "túi thơ" của mình để đón nhận và để dâng hiến. Nói chuyện tâm hồn mà vẫn giản dị như đời thường. Ngay cả trong những câu thơ hay nhất, mang chiều kích rộng lớn, bao la của vũ trụ ông vẫn dùng cách nói như thế ''Áo ta rách rưới trời không vá, Mà bốn mùa trăng mặc vải trăng.'' Lang thang Giáo sư Lê Đình Kỵ đã nhận xét "Không ai ngoài Hàn Mặc Tử có thể viết như thế... Câu thơ mang chiều kích của vũ trụ mà vẫn tự nhiên như không, siêu thoát mà vẫn trần tục với chuyện Rách rưới, Vá víu, Vải vóc." Một trong những tiêu chuẩn để đánh giá tài năng nghệ sỹ là cái lạ, cái độc đáo. Thơ ca Hàn Mặc Tử lạ trong cách suy nghĩ, lập ý, so sánh, trong cách dùng từ ngữ, hình ảnh. Và cái lạ nhất là một con người phải trải qua những nỗi đau thể xác và tinh thần ghê gớm như vậy nhưng giọng thơ nói chung không bi quan mà luôn mơ ước, hướng tới thế giới vĩnh hằng ''tứ thời xuân non nước.'' Bên những vần thơ điên loạn với ngập tràn ý tưởng của hồn, trăng, và máu, người ta còn biết đến những bài thơ trong sáng như ca dao, ngọt lành như trái chín với cái nhìn trẻ trung, lãng mạn mà bí ẩn của thi nhân. Đó là nhân vật trữ tình của một thời ''Hai mươi mốt tuổi, tuổi như hoa.'' Với bao hy vọng của tuổi trẻ Ra đời ta thấy đời vui sao/ Đầy cả say sưa với ngọt ngào…/ Lúc ấy lòng ta như rạo rực/ Bâng khuâng thèm uống rượu Quỳnh Dao/ Chạy theo hạnh phúc. Hàn Mặc Tử đã gắn bó tâm hồn mình với thiên nhiên đất nước, với những không gian đã từng chứng kiến bao kỷ niệm vui buồn, được mất trong cuộc đời và tình duyên của thi nhân. Lạ lùng thay với Hàn Mặc Tử, ''những địa danh cụ thể cũng trở thành huyền ảo,'' cũng nên thơ với Đà Lạt trăng mờ, Đây thôn Vĩ Dạ, Phan Thiết! Phan Thiết. Mộ Hàn Mạc Tử tại Ghềnh Ráng, Quy Nhơn, Bình Định. Nguồn Tình quê hương trong cách cảm, cách nghĩ của thi sỹ không chỉ là tình người, tình đời như thơ Nguyễn Bính hay là bức tranh quê như trong thơ Bàng Bá Lân, Anh Thơ mà là tiếng vọng của tâm linh, với những hình ảnh gợi cảm, giàu nhạc điệu Mây chiều còn phiêu bạt/ Lang thang trên đồi quê/ Gió chiều quên ngừng lại/ Dòng nước luôn trôi đi/ Ngàn lau không tiếng nói/ Lòng anh dường đê mê…/ Tiếng buồn trong sương đục/ Tiếng hờn trong luỹ tre/ Dưới trời thu man mác/ Bàng bạc khắp sơn khê Tình quê. ''Mùa xuân chín'' và ''Đây thôn Vĩ Dạ'' là những bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử. Với ''Mùa xuân chín,'' thiên nhiên trong thơ như không có đường viền. Trong cái không gian khoáng đạt, phóng túng ấy ẩn náu một cái tôi trữ tình tài hoa, đầy dự cảm của thi nhân Trong làn nắng ửng khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/ Trên giàn thiên lý bóng xuân sang/ Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời/ Bao cô thôn nữ hát trên đồi/ - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. Ngày 11/11/1940, Hàn Mặc Tử đã trút hơi thở cuối tại nhà thương Quy Hòa. Ngôi sao ấy xẹt qua bầu trời thi ca Việt nhưng đã kịp để lại vầng sáng lạ lùng và dữ dội. Nửa đời người chưa qua hết nhưng Hàn Mặc Tử đã làm tròn sứ mệnh của mình, để lại cho nền văn học Việt Nam một đời thơ giá trị. Thật đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã nhận định ''Mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, còn lại chút gì trên đời này đáng kể, đó chính là Hàn Mặc Tử''…./. Theo TTXVN
Giải tríGiới saoTrong nước Thứ tư, 19/1/2005, 0724 GMT+7 Những vần thơ Chế Lan Viên làm ra đã khiến Hàn Mặc Tử kinh ngạc. Đọc thơ của Chế, thi sĩ họ Hàn tìm ra được một hướng sáng tác những bài thơ điên loạn. Trước đó, ông đã nghiên cứu rất kỹ trường thơ tượng trưng của Pháp. Từ trái sang Các nhà thơ Quách Tấn, Nguyễn Đình, Chế Lan Viên năm 1941. Quy Nhơn - Bình Định là vùng đất thiêng. 500 năm trước, vùng đất này là chiến trường đẫm máu. Một vương triều sụp đổ, bao nhiêu chiến binh tử trận. Thành Đồ Bàn ngày nào còn lại một dãy gò sỏi mênh mông với những tháp Chàm đổ nát. Từ xưa, nhiều thi sĩ khi qua đây đã cảm xúc bật ra những vần thơ thống thiết. Vào những năm 1930-1945, Quy Nhơn - Bình Định bỗng trở thành vùng đất cực thịnh của văn chương nghệ thuật. Nơi đây tập trung toàn những thi sĩ tầm cỡ. Thuở ấy, có cậu học trò nhút nhát thích làm thơ tên là Phan Ngọc Hoan. Đắm mình trong không gian huyền hoặc của cõi Đồ Bàn, Hoan đặt cho mình cái tên Chế Lan Viên rồi khóc than người đã khuất bằng tập thơ Điêu tàn với những câu thơ thật lạ lùng "Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận/Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang/Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận/Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn". Năm 1936, từ Sài Gòn trở lại Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã gặp Chế Lan Viên. Chế tìm đến Tử như tìm đến một ông thày dạy làm thơ. Thế nhưng những vần thơ của Chế đã khiến Tử kinh ngạc "Chiều hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước/Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn/Hơi người chết tỏa đầy trong gió lướt/Tiếng máu kêu rung chuyển cỏ xanh non/Trên một nấm mồ tàn ta nhặt được/Khớp xương ma trắng tựa não cân người/Tủy đã cạn nhưng vẫn đầm hơi ướt/Máu tuy khô còn đượm khí tanh hôi". Trước đó, Hàn Mặc Tử đã nghiên cứu rất kỹ về trường phái thơ tượng trưng của Pháp. Chàng mong muốn tạo ra một trường phái thơ cho riêng mình. Giờ đây Chế đã làm lóe lên trong đầu Tử cái mà lâu nay chàng đi tìm nhưng chưa thấy. Trước đó, khi Yến Lan hoàn thành bản thảo tập Giếng loạn, Tử đã mơ hồ nghĩ đến một thứ thơ "không giống ai". Bây giờ đọc thơ của Chế, Hàn Mặc Tử đã tìm ra được một hướng sáng tác những bài thơ điên loạn. Vì vậy, ngay trong ngày Chế Lan Viên và Yến Lan đem bản in đặc biệt của tập Điêu tàn đến cho chàng xem, chàng hồ hởi công bố ngay việc thành lập Trường thơ loạn. Từ đó, dưới ngọn cờ của chủ soái Hàn Mặc Tử, các thành viên trong Trường thơ loạn say sưa sáng tác. Có những đêm cả bọn đem chăn màn ra bờ biển ở lại suốt đêm để thả hồn theo những vần thơ kỳ dị. Thơ của các thi sĩ Trường thơ loạn tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy... Tất cả say sưa bước chân vào thế giới rùng rợn đó. Nếu Hàn Mặc Tử thích thú với hồn để viết "Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút/Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta/Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt/Như mê man chết điếng cả làn da" thì Chế Lan Viên lại khoái... sọ người hơn "Hỡi chiếc sọ, ta vô cùng rồ dại/Muốn riết mi trong sức mạnh tay ta/ Để những giọt máu đào còn đọng lại/Theo hồn ta tuôn chảy những lời thơ/Ta muốn cắn mi ra từng mảnh nhỏ/Muốn điên cuồng nuốt cả khối xương khô". Việc nhóm thơ Bình Định cho ra đời Trường thơ loạn khiến văn thi hữu khắp nơi bàn tán xôn xao. Nhiều người hoan nghênh nhưng cũng không ít người chê bai. Hoài Thanh kể "Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Có người bảo Hàn Mặc Tử thơ với thẩn gì, toàn nói nhảm! Có người còn nghiêm khắc hơn nữa Thơ gì mà rắc rối thế. Mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc gì, cứ đọc đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!". Đặc biệt Xuân Diệu là người ghét cay ghét đắng những vần thơ điên của Tử. Hoài Thanh kể tiếp "Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn Mặc Tử khi viết đoạn này Hãy so sánh thái độ can đảm kia thái độ những nhà chân thi sĩ với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu Tôi điên đây! Tôi điên đây! Điên cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống”. Đúng là những vần thơ điên của các thi sĩ đã gây shock cho nhiều người. Nhưng thật ra đó chỉ là một cách giải quyết sự bế tắc trong tư tưởng mà thôi. Hàn Mặc Tử đã dẫn dắt các thi sĩ sáng tác khá nhiều vần thơ kỳ dị cho đến lúc chàng rời bỏ cuộc đời vào năm 1941. Sang năm 1942, đến lượt Bích Khê cũng vĩnh viễn ra đi. Trường thơ loạn từ đó tan rã. Theo Thanh Niên
Giáo dụcTrắc nghiệm Thứ sáu, 4/6/2021, 2000 GMT+7 Phan Ngọc Hoan là tên thật của nhà thơ Chế Lan Viên, Lâm Thanh Lang là tên thật của nhà thơ Yến Lan. Họ đều là những nhà thơ nổi tiếng, là bạn của Hàn Mặc Mặc Tử sinh năm 1912 ở Đồng Hới Quảng Bình, lớn lên ở Quy Nhơn Bình Định trong một gia đình theo đạo Công giáo. Từ bé, Hàn Mặc Tử thể trạng ốm yếu, tính hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn văn thơ. Cha ông làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm có tài làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ban đầu, bút danh của ông là Hàn Mạc Tử, nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm mặt trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật."Mặt Trăng khuyết" đã được đặt vào chữ "Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử được hiểu là "chàng trai bút nghiên". Ngoài Hàn Mặc Tử, ông còn có bút danh Lệ Thanh, Phong Trần. Nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ảnh tư liệu. Năm 1936, Bình Định xuất hiện một nhóm thơ được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" hay còn gọi là nhóm thơ Bình Định. Gần 10 năm tồn tại 1936-1945, nhóm chỉ có bốn thành viên là Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Yến Lan và Chế Lan thời gian đó, Hàn Mặc Tử biết Yến Lan vừa hoàn thành một tập thơ viết về đề tài chiến tranh, nhan đề Giếng loạn. Tập thơ đã gợi cho Hàn Mặc Tử cái tên của trường phái mà ông định thành đó, Hàn Mặc Tử lại được Chế Lan Viên tặng tập Điêu tàn 1937. Hàn Mặc Tử nhận thấy trong nhóm thơ tính khuynh hướng thể hiện rất rõ trong sáng tác của từng người nên ông đề xướng việc thành lập "trường thơ loạn".Thơ của các thi sĩ "trường thơ loạn" tràn ngập trăng, hồn, máu, bóng ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy. Tất cả say sưa bước chân vào thế giới rùng rợn 1938-1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội, rồi được đưa vào trại phong với tình trạng bệnh đã nặng, toàn thân khô cứng. Ông mất năm 1940, mới 28 phẩm chính của Hàn Mặc Tử Gái quê thơ, 1936; Thơ điên thơ, 1938; Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ kịch thơ, 1939; Quần tiên hội kịch thơ; Chơi giữa mùa trăng thơ văn xuôi, 1940. Ngoài tập Gái quê được in lúc sinh thời, những tác phẩm còn lại được in thành tập sau khi ông Thanh - Hoài Chân trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1942 nói về nỗi đau đớn của Hàn Mặc Tử những ngày cuối đời "Tôi nghĩ đến người đã sống trong túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựt trình che cho mái nhà đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao nhiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích. Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn cảnh thể phách lẫn linh hồn tan rã".Nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận xét "Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình. Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử".>>Quay lại
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh 22 tháng 9, 1912 – mất 11 tháng 11, 1940 là một nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo đạo Công giáo. Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức, sinh hạ được 8 người con 1-Nguyễn Bá Nhân tức nhà thơ Mộng Châu cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn. 2- Nguyễn Thị Như Lễ. 3- Nguyễn Thị Như Nghĩa. 4- Nguyễn Trọng Trí tức nhà thơ Hàn Mặc Tử. 5- Nguyễn Bá Tín người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 13-02-1959. 6- Nguyễn Bá Hiếu; 2 người em út Nguyễn Văn Hiền và Nguyễn Văn Thảo. Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do thân phụ là ông Nguyễn Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều nhiệm sở, nên Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ 1920, Qui Nhơn, Bồng Sơn 1921-1923, Pellerin Huế 1926. Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sỹ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc Điền. Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người. Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập "Gái quê", rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc loại "phong ngứa" gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ đến một căn bệnh nan y. Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa, Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng" tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng. Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile. Bác sĩ nói rằng Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học thời đó chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng Phan Thiết, qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hansen gây nên. Trước đây vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bao nhiêu bệnh nhân đã bị hắt hủi, cách ly, xa lánh thậm chí bị ngược đãi, thì Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm, đòi đưa ông cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránh nhiều nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị thì đúng là phản khoa học vì lẽ ra cần phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa.. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Và bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử chết là do nội tạng hư hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa. Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào nhà thương Quy Hòa 20 tháng 9 năm 1940 mang số bệnh nhân và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại nhà thương này vì chứng bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28. Cuộc đời của ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện. Nguyễn Trọng Trí làm thơ từ năm mười sáu tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử, sau ông lại đổi thành Hàn Mặc Tử. "Hàn Mạc Tử" nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. "Mặt Trăng khuyết" đã được "đặt vào" chữ "Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên". Theo Wikipedia
chế lan viên nói về hàn mặc tử